1. Sự hình thành dân cư và các bản
Hạnh Dịch
là vùng đất có lịch sử hình thành dân cư từ lâu đời. Theo cuốn sách Đồng Khánh Địa dư chí lược viết vào thời
vua Đồng Khánh (năm 1886) cho biết đã có tên xã Hành Dịch nằm trong tổng Vân Tập
huyện Quế Phong. Theo nhiều tài liệu nghiên cứu và những câu chuyện kể về sự
thành lập bản mường của các già làng xã Hạnh Dịch cho biết, nhóm người Thái đến
đây định cư sinh sống theo hai con đường. Thứ nhất họ di cư từ các tỉnh phía Tây
Bắc nước ta rồi đến các tỉnh Thanh Hóa sang Nghệ An và đến định cư ở xã Hạnh Dịch. Nhóm thứ hai di
cư từ Lào tới Nghệ An, huyện Quế Phong rồi đến vùng đất xã Hạnh Dịch. Quá trình
khai khẩn dần dần hình thành 2 mường lớn đó là Mường Đán và Mường Việc.
Mường Đán
là một vùng thung lũng, xung quanh là núi cao hiểm trở ở phía Tây Bắc của xã Hạnh
Dịch, tiếp giáp với nước Lào. Thung lũng Mường Đán được bao quan bởi các ngọn
núi như Pù Pỏm Đồn (xưa kia có đồn đóng ở đây nên gọi vậy), Pù Huồi Hò, Pù Gia
Phai, Pù Càng Côm… với một số hệ thống sông suối dày đặc như Huồi O, Huồi Na,
Huồi Mướng và Huồi Thanh. Tất cả các suối này đều chảy vào sông Nậm Đán tạo
thành một nhánh của sông Hiếu. Tên gọi Mường Đán được hiểu theo nhiều cách. Có
người cho rằng Mường Đán tức là mường khổ. Bởi theo các cụ cao niên kể lại cho
biết: xưa kia đồng bào phải chạy nạn, trốn tránh bọn giặc cướp bóc nên về đây
sinh sống. Vừa chạy loạn, vừa phải trốn tránh nên đời sống gặp rất nhiều khó
khăn.
Một góc bản Mường Đán
Nhưng cũng
có một cách hiểu khác đó là gọi chệch từ Mường Đan thành Mường Đán. Sự tích về
Mường Đan kể rằng: Ngày xưa có hai bà cháu xuống suối tắm, chẳng may cháu bị trượt
chân bị nước cuốn trôi, bà thấy vậy vội vàng chạy theo cứu cháu và lớn tiếng gọi
“Ta đan đơ, ta đan đơ” (nghĩa là trả lại cháu tôi đây). Từ đó người dân lấy tên
vùng này là Tả Đan hoặc Mường Đan. Sau này người dân phát âm và viết chữ khác
nhau nên Mường Đan thành Mường Đán.
Vùng đất Mường
Đán trước đây hay bị giặc Xá (Khơ Mú) đến đánh chiếm đóng. Từ đó, trong vùng có
2 ông là “Mừn Quang và Mừn Pàn” kêu gọi mọi người nổi lên chống lại kẻ địch. Hửng
ứng lời kêu gọi của các ông “Mừn Quang và Mừn Pàn”, hàng ngàn thanh niên trai
tráng của các bản mường theo về. Từ đó hai ông thành lập một đội quân đông hàng
ngàn người đứng lên đánh đuổi giặc Xá và chinh phục được nhiều vùng đất đai rộng
lớn. Sau đó các ông này đã mua vùng đất Mường Mun và bán vùng đất Mường Đán cho
ông Sầm Văn La. Ông Sầm Văn La lại tiếp tục bán vùng đất Mường Đán cho ông
Chinh Hương. Ông Chinh Hương chủ đất vùng này được một thời gian thì Cách mạng
Tháng Tám nổ ra, chính quyền về tay nhân dân, nhân dân Mường Đán được làm chủ bản
mường sống trong cảnh hòa bình tự do.
Mường Đán lúc
đầu có 4 bản là Na Xai, Hủa Mương, Cò Vạt và Cò Hiêng. Đến năm 1976 thực hiện
chủ trương định canh định cư của cấp trên, 4 bản của Mường Đán chuyển ra sinh sống
ở Mường Hin. Đến năm 1978 các bản của Mường Đán lại quay về nơi ở cũ và sáp nhập
lại thành 2 bản mới đó là bản Hủa Mương và bản Na Xai. Hủa Mương theo tiếng
Thái là đầu một mường, Na Xai nghĩa là ruộng cắt. Trong Mường Đán họ Vi đến đây
từ lâu đời nhất rồi đến họ Lô, họ Hà, họ Ngân, họ Quang…
Mường Việc,
theo tiếng Thái là chỉ vùng đất con người phải lao động sản xuất quanh năm
không hết việc, lao động mệt nhọc khó khăn như vậy nhưng không đủ ăn. Mường Việc
do một Tạo (người đầu tiên đến đây khai phá lập mường) khai phá ra (đến nay vẫn
chưa rõ họ tên). Trước đây ở Mường Việc có 5 bản đó là bản Na Phá, bản Hủa Na,
bản Cáng, bản Tổng Huống, bản Chiếng.
Bản Na Phá
nghĩa là ruộng khai hoang sản xuất. Người đến khai phá vùng đất này đầu tiên là
ông Hà Văn Vân (trước đây gọi là họ Ká). Ông vốn là người Hán chạy giặc qua
Thanh Hóa rồi đến khai hoang sản xuất ở bản Na Phá, đến nay đã được 8 đời. Sau
họ Hà là các dòng họ Vi, họ Lo, họ Lô, họ Lương và họ Lê đến đây sinh sống.
Bản Hủa Na
nghĩa là vùng ruộng nương đầu của Mường Việc, tách ra từ bản Na Phá. Người đầu
tiên đến đây khai hoang sản xuất là ông Kim Văn Quân.
Bản Cáng
nghĩa là bản ở vùng trung tâm giữa Mường Việc. Trong bản họ Lữ đến đây khai
hoang sản xuất đầu tiên, đó là các ông Lữ Văn Mương, Lữ Văn Xốn. Sau đó các họ
khác lần lượt tới đây khai hoang sản xuất.
Bản Chàm
nghĩa là vùng đất đó có nhiều cây Chàm. Bản Chàm do các ông họ Vi là Vi Văn Giảng,
Vi Văn Nhợ và Vi Văn Tôn tới đây sản xuất đầu tiên, sau đó lần lượt đến các
dòng họ khác.
Bản Tổng Huống
nghĩa là bản có cánh đồng to. Bản do ông Vi Văn Châu đến đây khai phá đầu tiên,
sau đó là các dòng họ khác.
Bản Chiếng
trước đây ở bên kia Nậm Việc sau đó chuyển sang bên này sông để lấy đất sản xuất.
Bản Chiếng do các ông Lữ Văn Tình, Lữ Văn Thiết đến khai hoang sản xuất đầu
tiên.
Bản Pỏm Om
nghĩa là bản ở trên đồi, muốn lên tới bản đường đi phải vòng vèo quanh đồi mới
tới được bản.
Bản Pà Kỉn
là bản mới thành lập năm 1996, tách ra từ bản Chàm. Bản Chắm Pụt nghĩa là trong
bản có một khúc sông có bọt nước nổi lên giống như ở dưới lòng sông có một con
rồng phun nước lên tạo thành bọt. Bản này do ông Lữ Văn Phương đến khai hoang đầu
tiên, sau đó đến các dòng họ khác như Lương, họ Vi, họ Lô, Hà.
Bản Mứt
nghĩa là bản chập tối. Bởi từ trung tâm đi bộ đến bản này đúng vừa lúc trời chập
tối nên gọi bản này là bản Mứt (mứt tức là chập tối). Họ Lương là dòng họ đến
đây khai phá đầu tiên, sau đó mới đến các dòng họ khác như họ Hà, họ Vi.
Bản Cóng
nghĩa là bản chôn tập trung. Bởi trước kia, bản này thường hay bị bọn phỉ từ
phía Lào sang cướp bóc giết nhiều người, rồi chôn người chết tập trung một chỗ
nên gọi là Cóng. Dòng họ về khai hoang đầu tiên ở đây đó là họ Lo có gốc từ xã
Thông Thụ. Sau đó là các dòng họ khác như Lô, Vi, Lương, Hà, Quang và Chạng tới
đây sinh sống.
2. Vài nét về đời sống vật chất
và văn hóa tinh thần
Hạnh Dịch là xã nằm
sát biên giới Việt – Lào, địa hình bị chia cắt bởi nhiều khe, suối lớn, phần
lớn diện tích là đồi núi. Từ bao đời nay, nhân dân ở đây sinh sống chủ yếu dựa
vào sản xuất nông nghiệp làm nương rẫy. Từ xa xưa, nhân dân đã biết trồng lúa
nước, nên đời sống đỡ vất vả hơn so với các vùng khác trong huyện. Ngoài khai
thác các lâm thổ sản trong rừng, người dân còn chăn nuôi các loại gia súc, gia
cầm như trâu, bò, lợn, gà… Đời sống nhân dân chủ yếu là tự cung tự cấp, các
nghề thủ công nghiệp chưa phát triển. Tuy vậy đồng bào đã tạo
dựng cho mình những nét văn hóa trong đời sống vật chất, tinh thần rất đa dạng
và phong phú.
Về ẩm thực,
trang phục hay nhà ở, đồng bào dân tộc Thái ở xã Hạnh Dịch cũng mang những đặc
trưng chung của các đồng bào dân tộc khác trong vùng huyện Quế Phong. Ẩm thực ở
đây thường có những đặc trưng khác biệt so với nhiều nơi ở miền xuôi. Cơ cấu
bữa ăn hàng ngày của đồng bào chủ yếu là các sản phẩm từ sản xuất nông nghiệp,
làm nương làm rẫy như: gạo, ngô, khoai, sắn, thức ăn chủ yếu đồng bào đánh bắt
được ở trong rừng hay dưới sông, suối các món ăn mang đậm hương vị miền núi như
ăn xôi, cơm lam, khầu hám, canh bon, xúp bon, canh măng đắng, thịt chua, thịt
giàng, cá nướng… Việc chế biến món ăn ở đây được nhân dân làm thành hai món
chính đó là chế biến trực tiếp nấu chín để ăn hoặc là chế biến để dùng dài ngày.
Trong các ngày lễ tết thức ăn, mâm cỗ được chế biến cầu kỳ hơn, nhiều món ăn
hơn, thường
có các loại pá pình, thịt chua, bánh sừng trâu, cơm lam, canh nhọoc, canh ột, chẻo
măng đắng, pá nạp… và không thể thiếu món ăn Hó mọoc. Đây là loại thức ăn rất
đặc trưng, dân dã, bổ dưỡng của người Thái.
Thức uống của
đồng bào nơi đây cũng đa dạng được hái từ trong rừng về. Rượu của người Thái có
hai loại đó là rượu trắng chế từ ngũ cốc, sắn, các thứ củ trong rừng với thứ
mem lá, và rượu cần còn gọi là rượu trấu, hông lên rồi bỏ ủ cùng với men trong
những chiếc chum, chiếc vò rồi bịt chặt lại, rượu cần thường được sử dụng khi
gia đình có khách quý đến hay anh em bà con lâu ngày đến thăm nhau, mọi người
thường quây quần bên nhau cùng uống, tâm sự, thăm hỏi và hát múa.
Trang phục của
người phụ nữ Thái được khâu may cẩn thận, có thêu nhiều hoa văn trên nền chiếc
áo, chiếc váy. Đi kèm với đó là chiếc khăn, vòng bạc, túi đeo, màn, rèm… trang
trí. Với
người phụ nữ Thái, chiếc váy không chỉ là trang phục mà còn là biểu tượng văn
hóa. Xưa kia, phụ nữ Thái ai cũng biết dệt thổ cẩm và tự tay làm nên chiếc váy
áo cho mình. Mỗi bộ váy áo, nhất là chiếc chân váy thể hiện sự tài hoa, tinh tế
của người dệt. Không những thế, người ta có thể nhìn vào họa tiết, màu sắc của
chiếc chân váy để biết người mặc thuộc nhóm Thái nào. Khi dệt một chiếc váy,
làm chân váy là công đoạn khó và cầu kỳ nhất. Các chân váy có điểm chung là
hình ảnh, đường nét sinh động, bố cục hài hòa và sự đối xứng đáng kinh ngạc
trong từng sản phẩm. Mỗi đường kim, sợi chỉ trên chiếc chân váy thể hiện sự
tinh xảo của đôi tay, đồng thời là những quan niệm về cuộc sống, thẩm mỹ của
người dân trên vùng núi rừng.Với những chiếc váy của người phụ nữ thuộc dòng
Thái tày Mường (hay còn gọi là Thái trắng) thì chân váy và thân váy thường tách
thành 2 bộ phận rõ rệt. Chân váy của người phụ nữ thuộc dòng người Thái này có
nhiều họa tiết đặc sắc, nhiều hình ảnh sinh động như: hình ông mặt trời, hình
cây, con vật... Những chiếc chân váy của người phụ nữ thuộc dòng Thái tày
Thanh thường liền với thân váy (có nhiều người còn gọi là váy không có chân
váy). Tuy nhiên, nhìn tổng thể, chiếc váy của người Thái Thanh vẫn có hai phần
rất rõ ràng. Chân váy của người phụ nữ thuộc Thái Thanh thường đơn giản hơn,
tông màu tối hơn Thái tày Mường. Vào những dịp lễ tết người phụ nữ Thái
thường mặc các trang phục truyền thống của mình, đầu đội khăn, khăn của phụ nữ Thái được làm từ vải
bông, tự dệt, được trang trí rất hài hòa, đẹp và có điểm nhấn. Chiều rộng từ 35
- 40cm, chiều dài từ 150 - 200cm. Với nền màu chàm đen, trên nền đó người phụ
nữ Thái thêu, dệt các đồ án hoa văn bằng các loại chì màu (xanh, đỏ, tím,
vàng,..) đã chuẩn bị từ trước, ở hai đầu khăn và cũng những sợi chỉ màu đỏ,
người phụ nữ Thái đã khéo léo để dư ra một đoạn khoảng từ 5 - 10cm làm những
tua xanh, vàng, tím, đỏ,... xung quanh viền hai đầu khăn. Dây thắt lưng
váy màu xanh, đeo quả đào bằng bạc, cổ tay đeo vòng bạc. Người đàn ông thường
mặc áo cộc xẻ thân trước với hàng khuy cài bằng xương hay bằng vải tết tròn
lại. Quần của họ có cạp, khi mặc thường túm lại rồi thắt bắt chéo trước bụng,
ống rộng, ngắn đến mắt cá chân. Cả quần và áo đều màu chàm, may bằng thứ vải
bông do phụ nữ trong gia đình dệt thành.
Nhà ở của người Thái là nhà sàn, được
làm bằng các vật liệu vững chắc như gỗ lim, gỗ táu, dổi và được dựng ở gần các
khe, suối. Nhà sàn thường có 4 mái, hai mái chính và hai mái phụ ở hai đầu hồi
và có một cầu thang để lên xuống. Tùy từng điều kiện gia đình mà nhà sàn được
thiết kế to nhỏ khác nhau. Trước đây nhà sàn được thiết kế với khung gỗ vững chắc,
mái được lợp bằng gỗ sa mu chẻ mỏng, đây là loại gỗ chịu được thời tiết mưa nắng,
mối mọt với tuổi thọ lên đến hàng trăm năm. Thưng xung quanh nhà là các tấm ván
gỗ chắc chắn, nhà nào không có điều kiện kinh tế làm bằng phên vách đan bằng nứa.
Nhà có 2 tầng, tầng trên cao hơn tầng dưới để tránh thú dữ, ẩm thấp nơi rừng
sâu, tầng dưới xưa kia còn được thiết kế để làm nơi ở của gia súc, gia cầm, đồng
thời cũng là nơi đặt Luống (tức là Lòng dã gạo), củi và các dụng cụ lao động sản
xuất hàng ngày. Tầng trên là nơi sinh hoạt ngủ, nghỉ của gia đình được liên kết
với một cầu thang. Sàn nhà được làm bằng ván chắc chắn. Nhà thường được kết cấu
từ 3 – 5 gian, mỗi gian có một không gian sử dụng riêng, gian đầu tiên là nơi để
tiếp khách ngồi chơi, nghỉ ngơi, gian thứ hai được dùng để thờ cúng gia tiên,
ngày thường người phụ nữ không được ngồi chơi hay nghỉ ngơi ở gian này, gian thứ
3 là gian ngủ của chủ nhà và các thành viên trong gia đình. Trong nhà thường có
2 cái bếp đó là bếp trong và bếp ngoài, ngày xưa thường có nhiều thế hệ ở trong
nhà nên nhà sàn của đồng bào thường có nhiều gian 5 – 7 gian nên lượng người
sinh hoạt đông nên phải có 2 bếp để nấu nướng thức ăn và sưởi ấm vào mùa đông.
Nhà ở của các bản thường được bố trí sát cạnh nhau, nhìn ra hướng đường hoặc
các khe suối. Đây là nét đặc sắc trong kiến trúc nhà ở của đồng bào Thái ở xã Hạnh
Dịch.
Các nghề thủ công truyền thống như đan
lát, may, dệt, mộc, rèn… vẫn được nhân dân trong xã duy trì và phát triển cho đến
ngày nay. Từ xa xưa người Thái ở Hạnh Dịch đã có tiếng về nghề dệt thổ cẩm.
Trong mỗi gia đình, con gái được dạy thêu từ thuở nhỏ. Đó là một tiêu chuẩn
quan trọng để các chàng trai sau này chọn làm vợ. Ở Hạnh Dịch khung cửi được
làm bằng tre, bằng gỗ có khổ rộng hơn so với nhiều nơi khác, một điểm khác biệt
nữa của đồng bào Thái ở Hạnh Dịch là thêu các hoa văn họa tiết trực tiếp trên
khung cửi làm như vậy các đường nét hoa văn tinh tế hơn mịn hơn đồng thơi nhanh
hơn và đẹp hơn so với thêu thông thường. Đàn ông thường giỏi đan lát song mây,
tre nứa để làm đồ dùng trong nhà hoặc đem bán để lấy tiền như mâm, ghế, ép xôi,
gùi…
Đời sống tinh thần của đồng bào ở Hạnh Dịch
cũng rất phong phú. Mặc dù đồng bào định cư sinh sống thành các bản nằm rải rác
ở các khu vực khác nhau nhưng họ đã hình thành nên những bản trung tâm với vùng
“Pù Xưa” chung của cộng đồng các bản đó. Trước đây người ta cấm chặt cây ở vùng
“Lắc Xưa” vì niềm tin rằng ai chặt phá cây ở vùng thần linh ở sẽ bị tội chết.
Chỉ có dịp duy nhất là trược khi tổ chức lễ thì được phát dọn một lối đi nhỏ để
có thể đặt lễ vào cột “Lắc Xưa”. Lễ tế Sần (thần) ở Mường Đán được tổ chức vào
dịp trỉa lúa đó là từ ngày 4 đến ngày 20/3 âm lịch hàng năm. Tế Sần (thần) là một
dịp dân bản xin các vị thần tha lỗi cho những việc làm không phải trong năm qua
và cầu xin thần linh làm cho mưa thuận gió hòa làm ăn phát đạt, có cuộc sống
thanh bình, tránh mọi nguy hiểm cho cộng đồng. Ngày tế, dân làng đưa lợn đến thịt
để thờ cúng ở Piêng Lầu trong 3 năm đầu, đến năm thứ tư dâng cúng thần linh bằng
một con trâu. Tất cả các chủ gia đình đưa áo của mình cùng nhau đặt trên một
chiếc mâm để tế Sần (thần) và cùng đến Piêng Lầu làm lễ. Ngày nay vẫn còn những
di tích “Pù Xưa” tồn tại ở bản Mứt, bản Pỏm Om và bản Chiếng, tuy nhiên lễ tế
thần đã không còn nữa.
Ngoài lễ tế thần linh, đồng bào Hạnh Dịch
xưa kia còn có lễ lúa mới (khau căm), lễ phòng trừ hỏa hoạn (Láng Tạ hoặc Sap
xe phay) hay lễ hội Xăng Khan – lễ của các thầy mo.
Ở Hạnh Dịch những thầy Mo có vai trò
quan trọng trong đời sống tâm linh của nhân dân nơi đây. Xưa kia gia đình nào bị
ốm đau, bệnh tật nặng đều phải mời mo về cúng để đuổi con ma làm hại con người,
hay làm vía cũng phải nhờ đến các mo. Mo cũng phân ra các loại đó là Mo Một, Mo
Tang Nhao, Mo Mốn và Mo Hạc Mạy. Trong đó Mo Một là mo to nhất, chuyên trách
công việc làm lễ tế cúng thần linh, cúng ma…; mo Tang Nhao là chuyên về cúng
cho người chết…; còn đối với mo Hạc Mạy là chuyên chữa bệnh cho người dân bằng
các loại thuốc Nam như rễ các loại cây cỏ trong rừng.
Trải qua bao
năm tháng các thế hệ đồng bào Hạnh Dịch đã tạo dựng nên một nền văn hóa tinh
thần mang đậm đã bản sắc dân tộc Thái. Đó là sự giản dị chân chất, mộc mạc thấm
đượm tình người, tình yêu cuộc sống lứa đôi, tình yêu quê hương, đất nước…
Điều đáng ghi
nhận và tự hào của đồng bào Thái ở Hạnh Dịch đó là nhiều người còn biết chữ
Thái Lai Tay. Trong văn hóa, văn nghệ, thơ ca, tục ngữ, dân ca Thái rất giàu hình
tượng, đậm chất trữ tình… đó là những điệu Sên, Khắp, Suối, Lăm, Nhuôn, truyện
cổ, cồng chiêng…. Các câu hát, điệu hò thường ngắn gọn, súc tích dễ hiểu, dễ
hát, dễ nhớ mang tính truyền cảm cao, đưa đến cho mọi người đều có thể cùng
hát, cùng xướng họa trong các ngày lễ hội truyền thống của dân tộc mình. Ngày
nay ở bản Na Xái đã phục dựng và thành lập một đội cồng chiêng, khắc luống do
chi hội phụ nữ bản biểu diễn để phục vụ sinh hoạt văn hóa cho bản cho xã và
phục vụ cho khách du lịch cộng đồng nơi đây.
Hôn nhân của
đồng bào người Thái ở Hạnh Dịch vẫn giữ tục lệ ông mối, bà mối. Họ xem ông bà
mối là người thân thứ ba của mình cả bên nhà gái hay bên nhà trai đều có ông,
bà mối. Ông bà mối là những người được dân bản tôn trọng, có đông con cái, am
hiểu phong tục tập quán, biết ăn nói. Ông bà mối nào đã nhận lời làm mối tức là
nhận trách nhiệm tất cả các nghi lễ chuẩn bị có liên quan đến lễ cưới. Trong
hôn nhân ở Hạnh Dịch cũng giống như các xã khác trong huyện Quế Phong đều trải
qua các lễ như Chiết Xáo, lễ đi hỏi hay còn gọi là lễ dạm hỏi vợ; lễ đi thăm;
lễ ăn hỏi và cuối cùng là lễ cưới.
Do coi trọng
việc thờ cúng tổ tiên (ma nhà) nên việc tang ma thường được tổ chức chu đáo và
trải qua nhiều nghi lễ như quàn thi hài, báo tang, phân công tổ chức đám ma,
khâm liệm và thờ cúng tại nhà, ngày đưa ma, hạ huyệt... Tùy từng gia đình có
điều kiện thường tổ chức các lễ này long trọng và cầu kỳ hơn, còn những gia
đình không có điều kiện thì những phần lễ này tổ chức đơn giản nhưng không được
bỏ qua một lễ nào.
Ngày nay đời
sống ngày càng phát triển, các lễ lạt rườm rà, hủ tục lạc hậu không còn phù hợp
với cuộc sống hiện đại đã dần được nhân dân Hạnh Dịch loại bỏ, chỉ giữ lại
những thuần phong mỹ tục truyền dạy cho con cháu.
Trước Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, dưới sự thống trị của thực dân và phong kiến, nhân dân
xã Hạnh Dịch không được học hành, mọi người giao tiếp với nhau bằng tiếng dân
tộc mình. Chỉ có một số ít người là biết ít tiếng phổ thông để trao đổi hàng
hóa. Trong cả vùng không có trường học, không có trạm y tế, mỗi khi người dân
bị bệnh thì tìm đến các loại lá rừng, cây rừng đem về chữa, nếu không khỏi thì
đi mời thầy mo về để làm lễ đuổi con ma đi cho người mau khỏe. Bởi đồng bào ở
đây quan niệm rằng mọi bệnh tật là đều do ma gây ra nên phải mời thầy mo về cầu
cúng để đuổi ma hoặc bắt ma cho người được khỏe mạnh, vì thế nên bệnh dịch
hoành hành, ốm đau, bệnh tật thường xuyên.
Sau Cách mạng
Tháng Tám năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các lớp học, rồi trường học mở
ra, trạm y tế hình thành, từ đó trình độ nhận thức của đồng bào được nâng lên,
cuộc sống được đảm bảo hơn, công tác chăm sóc sức khỏe được chú trọng nên tuổi
thọ trung bình của người dân ngày càng tăng cao. Đến nay trạm y tế xã đã đạt
chuẩn quốc gia giai đoạn I (2007) và giai đoạn II (2017).